Rối loạn nhiễm sắc thể là gì? Các công bố khoa học về Rối loạn nhiễm sắc thể
Rối loạn nhiễm sắc thể (chromosomal disorder) là một loại bệnh lý di truyền do sự thay đổi hoặc mất mát cấu trúc của nhiễm sắc thể. Nhiễm sắc thể là các cấu trú...
Rối loạn nhiễm sắc thể (chromosomal disorder) là một loại bệnh lý di truyền do sự thay đổi hoặc mất mát cấu trúc của nhiễm sắc thể. Nhiễm sắc thể là các cấu trúc chứa DNA và protein, đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền tin gen từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp.
Rối loạn nhiễm sắc thể có thể gây ra những hiện tượng không bình thường trong cấu trúc hoặc số lượng nhiễm sắc thể. Có nhiều nguyên nhân gây ra rối loạn nhiễm sắc thể, bao gồm lỗi sao chép, phá hủy hoặc mất mát nhiễm sắc thể trong quá trình phân bào sinh dục, hoặc sự tạo thành nhiễm sắc thể mới không bình thường trong quá trình hình thành hạt trứng hoặc tinh trùng.
Một số rối loạn nhiễm sắc thể phổ biến gồm: hội chứng Down, hội chứng Turner, hội chứng Klinefelter, hội chứng Edwards và hội chứng Patau. Những rối loạn này có thể gây ra những vấn đề sức khỏe và tình trạng tự kỷ, suy dinh dưỡng, khuyết tật cơ bản và khả năng học tập bị ảnh hưởng. Điều trị tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể và có thể bao gồm kiểm tra, quản lý các triệu chứng và hỗ trợ tổ chức.
Rối loạn nhiễm sắc thể có thể gây ra các biến đổi trong cấu trúc và/hoặc số lượng của nhiễm sắc thể. Dưới đây là một số điển hình về các rối loạn nhiễm sắc thể:
1. Hội chứng Down (trisomy 21): Đây là một trong những rối loạn nhiễm sắc thể phổ biến nhất, nơi người bệnh có thừa có một bản sao thêm của nhiễm sắc thể 21. Điều này gây ra triệu chứng như kém thông minh, kích thước đầu nhỏ, mặt tròn và phẳng, các khuyết tật cơ bản, vấn đề tim mạch và rối loạn học tập.
2. Hội chứng Turner (monosomy X): Đây là rối loạn nhiễm sắc thể dẫn đến thiếu mất một nhiễm sắc thể X ở nữ giới. Bệnh nhân thường có chiều cao thấp, vấn đề về tình dục, vấn đề tim mạch và tách hạch chứng.
3. Hội chứng Klinefelter (XXY trisomy): Đây là rối loạn nhiễm sắc thể dẫn đến trạng thái nam giới có thừa một nhiễm sắc thể X. Bệnh nhân thường có vấn đề liên quan đến tình dục, kích thước tinh hoàn nhỏ, tăng nồng độ estrogen và rối loạn học tập.
4. Hội chứng Edwards (trisomy 18): Đây là một rối loạn nhiễm sắc thể nghiêm trọng, khi người bệnh có thừa một bản sao thêm của nhiễm sắc thể 18. Điều này gây ra các triệu chứng như kích thước nhỏ, kỵ cầu vàng, bất thường cơ bản và rối loạn học tập.
5. Hội chứng Patau (trisomy 13): Đây là một rối loạn nhiễm sắc thể hiếm, khi có thừa một bản sao thêm của nhiễm sắc thể 13. Bệnh nhân thường có kích thước nhỏ, vấn đề trong cấu trúc khuôn mặt, khuyết tật cơ bản và rối loạn học tập.
Điều trị cho rối loạn nhiễm sắc thể thường tập trung vào quản lý triệu chứng và hỗ trợ tổ chức, như chăm sóc y tế định kỳ, giáo dục đặc biệt và các phương pháp giảm triệu chứng như chăm sóc tâm lý và vật lý. Một số rối loạn nhiễm sắc thể có thể được phát hiện trước khi con chào đời thông qua các quá trình kiểm tra cha mẹ hoặc xét nghiệm trước sinh.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "rối loạn nhiễm sắc thể":
Đặt vấn đề Trong các hội chứng rối loạn sinh huyết (MDS), các bất thường nhiễm sắc thể 3 (ví dụ: biến đảo 3 (inv(3)), chuyển chỗ 3q (t(3q)), hoặc mất đoạn 3q (del(3q)) được coi là kiểu gen kém dự đoán theo Hệ thống Đánh giá Tiên lượng Quốc tế Chỉnh sửa (IPSS-R). Ở bệnh nhân mắc leukemia tủy cấp (AML) với bất thường 3q, nhóm bệnh nhân có inv(3)/t3;3 chiếm tỷ lệ không mong muốn nhất với thời gian sống trung bình của tổng thể (OS) là 10,3 tháng (Lugthart et al., 2010). Chúng tôi đã trình bày một kinh nghiệm của một cơ sở về kết quả của bệnh nhân MDS với bất thường nhiễm sắc thể 3. Tại đây, chúng tôi đã tìm cách xác định thêm kết quả của bất thường nhiễm sắc thể 3 trong MDS và xem xét ảnh hưởng của các tác nhân giảm methyl hoá (HMA) đến kết quả tại nhiều cơ sở khác nhau.
Bệnh nhân và Phương pháp Bệnh nhân được xác định thông qua Liên minh Nghiên cứu Lâm sàng MDS và được đưa vào nếu họ có chẩn đoán MDS theo tiêu chí của WHO, MDS/khối u tạo huyết (MPN), MDS liên quan đến điều trị (t-MDS) hoặc AML (20-30% myeloblasts) và có bất kỳ bất thường kiểu gen nào liên quan đến nhiễm sắc thể 3. Dữ liệu được phân tích bao gồm nhân khẩu học cơ bản, đặc điểm bệnh lý, điểm số IPSS/IPSS-R, điều trị và kết quả. Phản ứng với liệu pháp HMA được đánh giá theo tiêu chí Nhóm làm việc Quốc tế (IWG) 2006. Ước tính Kaplan-Meier được sử dụng cho thời gian sống tổng thể.
Kết quả Tổng cộng có 413 bệnh nhân được xác định với tuổi trung bình khi chẩn đoán là 67 tuổi. Phân loại WHO như sau: 9% RA/RARS, 12% RCMD, 26% RAEB-1, 31% RAEB-2, 2% MDS/MPN, 7% MDS không phân loại, 13% AML; 34% đã có t-MDS. Tổng thể, 97% bệnh nhân có nguy cơ cao theo IPSS-R (tức là, trung bình đến rất cao) với tỷ lệ nguyên bào % trong tủy xương là 8%. Phân bố các bất thường sinh học tế bào là inv(3) (10%), del(3q) (12%), t(3q) (18%), đơn nhiễm 3 (22%), bất thường 3p (22%), và các thay đổi khác của nhiễm sắc thể 3 (17%). Thời gian sống trung bình cho nhóm bệnh nhân là 12,0 tháng (C.I. 95% 10,8 đến 13,9 tháng) và 31% bệnh nhân không chuyển sang AML. IPSS-R dự đoán thời gian sống trung bình trong các nhóm phụ (P < 0,00001). Bất thường sinh học tố cụ thể dự đoán được sự sống còn (P < 0,00001) với thời gian sống trung bình cho t(3q) 19 tháng, inv(3) 13 tháng, del(3q) 13 tháng, 3p 10 tháng, đơn nhiễm 3 9 tháng, và các bất thường 3 khác 11 tháng. Không có sự khác biệt về sống còn giữa bệnh nhân có chuyển chỗ 3q21 so với 3q26 (thời gian sống trung bình 18 tháng so với 18,6 tháng, P = 0,96). Bệnh nhân có bất thường nhiễm sắc thể 3 đơn độc có thời gian sống trung bình cải thiện đáng kể (25,1 tháng so với 10,9 tháng (P < 0,00001). Kiểu gen phức tạp (>= 3 bất thường) được quan sát ở 74% bệnh nhân và liên quan đến việc giảm OS (11 tháng so với 21 tháng, P < 0,00001). Trong số bệnh nhân nhận điều trị HMA (48%), tỷ lệ phản ứng tổng thể là 46% (17% cải thiện huyết học (HI), 7% PR, 20% CR, 2% marrow CR (CRm) với bệnh ổn định ở 23%). Thời gian sống trung bình với và không có HMA là 15,5 tháng so với 8,4 tháng (p=0.038). Trong nhóm bệnh nhân có nguy cơ trung bình 2/cao theo IPSS, bệnh nhân được điều trị HMA có thời gian sống OS trung bình là 14,0 tháng so với 7,6 tháng cho bệnh nhân không được điều trị với HMA (P = 0.005) không có lợi cho HMA ở bệnh nhân có nguy cơ thấp hơn (thời gian sống trung bình 24,5 tháng với HMA so với 38,7 tháng không có; P =0.41). Mô hình hồi quy Cox với liệu pháp HMA, IPSS và vị trí lâm sàng xác nhận lợi ích OS của HMA ở bệnh nhân có nguy cơ cao hơn (HR 0.69; C.I. 95% 0.53-0.89; P = 0.005), nhưng cho thấy giảm OS ở bệnh nhân có nguy cơ thấp hơn (HR 2.0; C.I. 95% 1.03-3.92; P = 0.04). Ghép tế bào gốc toàn thể được thực hiện cho 18% (n=75) bệnh nhân, với thời gian sống trung bình là 18 tháng so với 10 tháng ở bệnh nhân không ghép (P < 0.00001).
Kết luận Trong nhóm lớn bệnh nhân MDS và AML oligoblastic liên quan đến bất thường nhiễm sắc thể 3, tỷ lệ sống sót là không đồng nhất nhưng tổng thể là kém, với bất thường nhiễm sắc thể 3 đơn độc và t(3q) bệnh nhân có thời gian sống tốt hơn so với bệnh nhân có bất thường nhiễm sắc thể 3 khác. Bệnh nhân MDS với các thay đổi 3p có kết quả kém. Mặc dù một số bệnh nhân có nhiễm sắc thể 3 phản ứng với liệu pháp HMA, nhưng tỷ lệ sống tổng thể vẫn kém và cần các phương pháp tiếp cận mới.
- 1
- 2